Một số điểm mới về Hoạt động thanh tra chuyên ngành quy định tại Luật Thanh tra 2010 và Nghị định 07/2012/NĐ-CP

09/10/2019 07:36

1. Đặt vấn đề

Ngày 15/11/2010, tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội khoá XII đã biểu quyết thông qua Luật Thanh tra năm 2010 thay thế cho Luật Thanh tra năm 2004.

Một trong những điểm mới đáng chú ý của Luật Thanh tra 2010 là nâng cao địa vị pháp lý của cơ quan thanh tra, xác định tính độc lập tương đối của các cơ quan thanh tra trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Luật quy định rõ cơ quan thanh tra có quyền chủ động tiến hành thanh tra theo kế hoạch thanh tra đã được phê duyệt; trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì Thủ trưởng cơ quan thanh tra có quyền quyết định thanh tra và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Bên cạnh đó, Luật Thanh tra 2010 còn quy định Thủ trưởng cơ quan Thanh tra có quyền đề nghị hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của cơ quan, đơn vị mình khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nếu các chủ thể này không đồng ý thì Thủ trưởng cơ quan Thanh tra có quyền ra quyết định thanh tra đối với vụ việc đó; quy định Thủ trưởng cơ quan Thanh tra có quyền quyết định thanh tra lại vụ việc đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật .

Một điểm mới có tính đột phá nhằm đảm bảo tính nguyên tắc "Tuân theo pháp luật; đảm bảo chính xác khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời" trong hoạt động thanh tra, đó là theo quy định trước đây, người ra kết luận thanh tra có trách nhiệm công bố hoặc gửi kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra, nhưng theo quy định mới, kết luận thanh tra còn phải được công khai bằng nhiều hình thức. Quy định trên buộc các cơ quan thanh tra, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành phải đổi mới lề lối làm việc, nâng cao chất lượng, trách nhiệm trong công tác thanh tra, đầu tư hiện đại hóa hoạt động thanh tra.

Trong Luật Thanh tra 2004 không có quy định riêng về lực lượng thanh tra chuyên ngành, nhưng trên thực tế, đã xuất hiện quá nhiều tổ chức thanh tra chuyên ngành dẫn đến việc trùng lặp, chồng chéo trong công tác thanh tra. Luật Thanh tra 2010 có quy định về thanh tra chuyên ngành theo hướng mở rộng, tăng cường hoạt động của thanh tra chuyên ngành, hoạt động của thanh tra chuyên ngành không chỉ được tiến hành bởi Thanh tra bộ, Thanh tra sở, nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành còn được giao cho cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, đó là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, theo lĩnh vực bao gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra độc lập. Khi tiến hành thanh tra, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành được xử phạt vi phạm hành chính và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

2. Một số nội dung mới của Luật Thanh tra 2010

2.1. Mục đích hoạt động

Điểm mới của Luật Thanh tra lần này trước hết là quy định mục đích của thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành nói riêng. Điều này được thể hiện tại Điều 2 Luật Thanh tra 2010 “Mục đích hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

2.2. Nguyên tắc hoạt động

Về cơ bản, nguyên tắc hoạt động thanh tra được quy định trong Luật Thanh tra 2004 là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các cơ quan nhà nước thời gian qua. Tuy nhiên, thực tế công tác thanh tra cũng cho thấy vẫn còn tình trạng trùng lắp, chồng chéo trong hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra. Để khắc phục tình trạng này, giúp các cơ quan thanh tra hoạt động theo đúng phạm vi được pháp luật quy định, bảo đảm cho công tác thanh tra góp phần thiết thực hơn nữa trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra, Luật Thanh tra năm 2010 đã bổ sung thêm nguyên tắc hoạt động thanh tra “không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra”.

2.3. Tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước

 Luật Thanh tra năm 2010 không phân định tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước thành lập theo cấp hành chính và tổ chức cơ quan thanh tra nhà nước thành lập theo ngành, lĩnh vực mà chỉ quy định về các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, bao gồm:

+ Cơ quan thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thanh tra sở; Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).

+ Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (một số tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở).

Việc thay đổi về tổ chức như trên là nhằm nâng cao tính hệ thống của các cơ quan thanh tra nhà nước, đồng thời xác định rõ đối tượng thanh tra, phạm vi thanh tra giữa các cơ quan thanh tra, giữa cơ quan thanh tra nhà nước với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, khắc phục sự trùng lặp trong hoạt động thanh tra.

2.4. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

Luật Thanh tra năm 2004 không quy định việc thành lập cơ quan thanh tra ở các tổng cục, cục và chi cục, song trên thực tế đã có không ít tổng cục, cục, chi cục thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành. Việc thành lập các cơ quan thanh tra này đã dẫn đến hoạt động thanh tra bị trùng lặp về phạm vi; làm tăng biên chế, tổ chức bộ máy nhà nước; các cơ quan thanh tra ngày càng bị chia cắt. Mặc dù vậy, nếu khắc phục nhược điểm này bằng cách xóa bỏ các cơ quan thanh tra chuyên ngành ở các tổng cục, cục, chi cục và giao chức năng thanh tra chuyên ngành cho Thanh tra bộ, Thanh tra sở thì nhiều Thanh tra bộ, Thanh tra sở không thể đảm nhận được, vì nhiệm vụ thanh tra ngày càng lớn, trong khi đó số lượng biên chế của những cơ quan thanh tra là rất hạn chế.

Để đảm bảo được yêu cầu xử lý nhanh chóng, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là các vi phạm xảy ra ngày càng nhiều trong một số lĩnh vực liên quan đến đời sống sinh hoạt của nhân dân và khắc phục được khó khăn trên, Luật thanh tra năm 2010 đã giao chức năng thanh tra chuyên ngành ở ngành, lĩnh vực cho các tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở thực hiện. Đây là nội dung phản ánh sự đổi mới về nhận thức trong tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là theo quy định của Luật thanh tra năm 2010 thì không phải bất kỳ tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở nào cũng được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành mà việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành phải xuất phát từ yêu cầu công tác quản lý nhà nước và các cơ quan nào được giao thực hiện chức năng thanh tra này sẽ do Chính phủ quy định theo đề nghị của Tổng Thanh tra Chính phủ sau khi đã thống nhất với Bộ trưởng.

Ngoài ra, để tránh việc thành lập các cơ quan thanh tra ở các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, Luật Thanh tra cũng khẳng định rõ các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập mà hoạt động thanh tra ở các cơ quan này do Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thực hiện, tức là Thủ trưởng có trách nhiệm trực tiếp xây dựng kế hoạch thanh tra, quyết định thanh tra, thành lập Đoàn thanh tra, cử cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kết luận thanh tra. Hoạt động thanh tra của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành do chính các công chức của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đó thực hiện. Quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, các công chức được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có quyền yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra, được quyền xử phạt vi phạm hành chính và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các quyết định, hành vi của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

2.5. Người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành

Về cơ bản, các quy định về thanh tra viên, cộng tác viên thanh tra trong Luật thanh tra mới được kế thừa từ Luật Thanh tra năm 2004, song để đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra hiện nay, Luật Thanh tra năm 2010 đã sửa đổi các quy định về điều kiện tiêu chuẩn của thanh tra viên, ngạch thanh tra viên, đồng thời bổ sung quy định về người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Đối với người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải là công chức của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với chuyên ngành, am hiểu pháp luật, có nghiệp vụ thanh tra.

2.6.  Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra

 Luật thanh tra năm 2010 đã bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn nhằm nâng cao tính chủ động, tính độc lập tương đối cho các cơ quan thanh tra, như: quyền ra quyết định thanh tra của Chánh thanh tra các cấp, các ngành khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật; việc kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới thuộc thẩm quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp; việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, kết luận thanh tra; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp đã kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật…và quy định rõ phạm vi thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh trong việc thanh tra đối với các doanh nghiệp nhà nước do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quyết định thành lập.

Để xác định rõ hơn vai trò của các cơ quan thanh tra, đảm bảo hoạt động thanh tra thực sự có hiệu lực, hiệu quả, Luật thanh tra mới đã tập trung tăng cường các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra cũng như người đứng đầu các cơ quan này. Đồng thời, phân định, làm rõ các nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra với nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra với nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan thanh tra. Các nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra, người đứng đầu cơ quan thanh tra trong Luật thanh tra năm 2010 về cơ bản được kế thừa từ Luật Thanh tra năm 2004, song Luật Thnh tra lần này đã bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan thanh tra. Cụ thể là:

- Bổ sung việc quyết định thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật cho Chánh thanh tra các cấp, các ngành. Việc bổ sung quyền năng này là nhằm tăng cường tính chủ động cho người đứng đầu các cơ quan thanh tra trong việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra, bảo đảm tính linh hoạt, nhanh nhạy của thanh tra trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội hiện nay.

- Bổ sung việc thanh tra đối với các doanh nghiệp nhà nước do Thủ trưởng cơ quan quản lý quyết định thành lập. Đây là nội dung được xác định rõ hơn nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra trong hoạt động thanh tra đối với đối tượng thanh tra là các doanh nghiệp.

- Bổ sung việc kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới thuộc thẩm quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp.

- Bổ sung việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, kết luận thanh tra.

- Bổ sung việc quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp đã kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp vụ việc đã được các cơ quan thanh tra cấp dưới tiến hành thanh tra, song vì lý do nào đó mà không thể phát hiện hết các vi phạm pháp luật, do vậy Luật thanh tra đã bổ sung quyền thanh tra lại vụ việc đã được Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp dưới của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp đã kết luận nhưng thanh tra cấp trên phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nhằm đáp ứng yêu cầu công tác phòng, chống các vi phạm pháp luật hiện nay, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được phát hiện và xử lý kịp thời.

2.7. Quy định chung về hoạt động thanh tra

Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra đối với hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước, Luật Thanh tra đã lựa chọn những vấn đề chung nhất chi phối hai hoạt động thanh tra để điều chỉnh trong một mục riêng, đồng thời sửa đổi những vấn đề bất cập, bổ sung những quy định mới để làm rõ hơn hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Tại Mục I quy định chung, điều chỉnh những nội dung hết sức quan trọng, cơ bản trong hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, đó là Định hướng chương trình thanh tra, công khai kết luận thanh tra, xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật của những người thực thi quyền thanh tra.

2.8. Công khai kết luận thanh tra

Để tăng cường tính minh bạch trong hoạt động thanh tra, tạo cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước cũng như của các tổ chức, của xã hội và của nhân dân, góp phần phòng ngừa tham nhũng, tăng cường kỷ cương trong việc thực hiện kết luận thanh tra, đồng thời để bảo đảm sự phù hợp với quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thanh tra năm 2010 đã bổ sung quy định về việc công khai kết luận thanh tra, theo đó: Kết luận thanh tra phải được công khai, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Kết luận thanh tra được công khai thông qua các hình thức: (1) Công bố tại cuộc họp với thành phần bao gồm người ra quyết định thanh tra, Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc tổ chức họp báo; (2) Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; (3) Đưa lên trang thông tin điện tử của cơ quan thanh tra nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý nhà nước cung cấp; (4) Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra.

2.9. Nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra

Trưởng đoàn thành tra là người có vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của Đoàn thanh tra và quyết định chất lượng cuộc thanh tra. Vì vậy, Luật thanh tra năm 2004 đã trao cho Trưởng đoàn thanh tra những quyền hạn lớn trong quá trình tiến hành thanh tra. Song để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công tác thanh tra, Luật thanh tra năm 2010 còn bổ sung thêm một số nhiệm vụ, quyền hạn mạnh mẽ hơn cho người đứng đầu Đoàn thanh tra: “Yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong toả tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra có hành vi tẩu tán tài sản”. Bên cạnh đó còn xác định rõ trách nhiệm của Trưởng đoàn phải “báo cáo với người ra quyết định thanh tra về kết quả thanh tra và chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của báo cáo đó”.

2.10. Báo cáo kết quả thanh tra:

Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra. Báo cáo kết quả thanh tra phải gửi tới người ra quyết định thanh tra. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thì báo cáo kết quả thanh tra còn được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra cùng cấp. Luật thanh tra năm 2010 có bổ sung thêm nội dung báo cáo về vấn đề tham nhũng đã phát hiện. Trong đó phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức mình và báo cáo phải chỉ ra những lý do, nguyên nhân để xảy ra tham nhũng.

2.11. Hoạt động thanh tra chuyên ngành

Luật thanh tra năm 2010 quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, là hoạt động thanh tra do các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực tiến hành, như Bộ, Sở, Thanh tra bộ, Thanh tra sở, cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (Tổng cục, Cục thuộc bộ, Chi cục thuộc sở).

Thứ hai, đối tượng thanh tra chuyên ngành là mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành.

Thứ ba, nội dung của thanh tra chuyên ngành là xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn, kỹ thuật, qui tắc quản lý của ngành, lĩnh vực. Khi xem xét, các cơ quan tiến hành có quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm.

Luật thanh tra năm 2010 đã lựa chọn những vấn đề giống nhau để quy định điều chỉnh chung cho các loại thanh tra chuyên ngành về thẩm quyền ra quyết định thanh tra; nội dung quyết định thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên….

Còn những nội dung mang tính đặc thù, chuyên sâu về trình tự thủ tục thanh tra chuyên ngành và mối quan hệ trong hoạt động thanh tra chuyên ngành giữa các cơ quan quản lý nhà nước đã được Chính phủ quy định tại Nghị định 07/2012/NĐ-CP về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành.

 3. Hoạt động thanh tra chuyên ngành theo Nghị định 07/2012/NĐ-CP

3.1. Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành

Bộ KH&CN có 02 cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo lĩnh vực quản lý là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục An toàn bức xạ và Hạt nhân.

Các cơ quan này có bộ phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành được thành lập theo quyết định của người có thẩm quyền.

Người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức thuộc biên chế của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (sau đây gọi là công chức thanh tra chuyên ngành). Tiêu chuẩn cụ thể của công chức thanh tra chuyên ngành do Bộ trưởng ban hành.

Công chức thanh tra chuyên ngành có trang phục, thẻ công chức thanh tra chuyên ngành và được hưởng chế độ bồi dưỡng khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra. Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chế độ bồi dưỡng đối với công chức thanh tra chuyên ngành. Trang phục và thẻ công chức thanh tra chuyên ngành do Bộ trưởng quy định.

Tổng cục trưởng, Cục trưởng và công chức thanh tra chuyên ngành có quyền xử  phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

3.2. Hoạt động của Đoàn thanh tra chuyên ngành

3.2.1. Thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành

Thanh tra theo kế hoạch: Chánh thanh tra bộ, Chánh thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy cần thiết, Bộ trưởng, Giám đốc sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đòan thanh tra.

Thanh tra đột xuất: Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở ra quyết định thanh tra đột xuất và báo cáo Bộ trưởng, Giám đốc sở. Trường hợp người ra quyết định thanh tra là Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ thì báo cáo Chánh Thanh tra bộ. Đối với vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra đột xuất.

3.2.2. Quyền hạn của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành

- Sử dụng dấu của cơ quan chủ trì tiến hành thanh tra khi ban hành văn bản để áp dụng các biện pháp thực hiện nhiệm vụ thanh tra.

- Yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh tra có hành vi tẩu tán tài sản.

            3.2.3. Trình tự và thủ tục tiến hành thanh tra chuyên ngành

Xây dựng và phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh traTrưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tiến hành thanh tra của Đoàn thanh tra. Kế hoạch tiến hành thanh tra gồm: mục đích, yêu cầu, phạm vi, nội dung, đối tượng, thời kỳ, thời hạn thanh tra; phương pháp tiến hành thanh tra, tiến độ thực hiện, chế độ thông tin, báo cáo, phương tiện, thiết bị, kinh phí và những điều kiện vật chất cần thiết khác phục vụ hoạt động của Đoàn thanh tra; tổ chức thực hiện kế hoạch tiến hành thanh tra. Người ra quyết định thanh tra phê duyệt kế hoạch tiến hành thanh tra. Thời gian xây dựng và phê duyệt không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày ký quyết định thanh tra. Trường hợp thanh tra đột xuất thì thời gian không quá 03 ngày làm việc.

`           - Trưởng đoàn thanh tra phổ biến kế hoạch tiến hành thanh tra; phương pháp, cách thức tiến hành thanh tra; phân công nhiệm vụ cho các thành viên. Thành viên xây dựng kế hoạch cá nhân và báo cáo Trưởng đoàn.

- Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo và gửi đối tượng thanh tra trước ngày công bố quyết định thanh tra.

- Trưởng đoàn thanh tra thông báo kế hoạch công bố quyết định thanh tra đến đối tượng thanh tra và phải nêu rõ thời gian, địa điểm, thành phần tham dự.

- Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm công bố quyết định thanh tra với đối tượng thanh tra. Việc công bố phải được lập thành biên bản có chữ ký của Trưởng đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra và chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra.

- Thành viên Đoàn thanh tra có trách nhiệm thu thập thông tin, tài liệu, chứng cứ và đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật của đối tượng thanh tra liên quan đến nội dung thanh tra được phân công và báo cáo Trưởng đoàn.

- Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm báo cáo tiến độ thực hiện nhiệm vụ của Đoàn thanh tra bằng văn bản với người ra quyết định thanh tra, gồm các nội dung: tiến độ thực hiện nhiệm vụ; nội dung đã hoàn thành; nội dung đang tiến hành; công việc thực hiện trong thời gian tới; kiến nghị, đề xuất (nếu có).

- Chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra, trừ trường hợp nội dung kết luận thanh tra phải chờ kết luận về chuyên môn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Báo cáo kết quả thanh tra chuyên ngành phải có các nội dung sau đây: (1) Khái quát về đối tượng thanh tra; (2) Kết quả kiểm tra, xác minh về từng nội dung thanh tra; (3) Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, việc chấp hành các quy định về tiêu chuẩn, chuyên môn - kỹ thuật của đối tượng thanh tra; (4) Các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã được áp dụng trong quá trình tiến hành thanh tra; kiến nghị các biện pháp xử lý hành vi vi phạm pháp luật; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua thanh tra (nếu có); (5) Ý kiến khác nhau giữa thành viên Đoàn thanh tra (nếu có)

- Người ra quyết định thanh tra chỉ đạo Trưởng đoàn thanh tra xây dựng dự thảo kết luận thanh tra. Trước khi kết luận chính thức, nếu thấy cần thiết thì người ra quyết định thanh tra lấy ý kiến của cơ quan chuyên môn hoặc gửi dự thảo kết luận thanh tra cho đối tượng thanh tra. Việc giải trình của đối tượng thanh tra được thực hiện bằng văn bản và có các tài liệu chứng minh kèm theo.

- Chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra; trừ trường hợp nội dung kết luận thanh tra phải chờ kết luận về chuyên môn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Kết luận thanh tra phải có các nội dung sau đây: (1) Kết quả kiểm tra, xác minh về từng nội dung thanh tra; (2) Kết luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, chuyên môn - kỹ thuật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); (3) Kiến nghị các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua thanh tra (nếu có). Kết luận thanh tra phải được gửi tới các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và lưu hồ sơ thanh tra theo quy định.

- Người ra quyết định thanh tra có trách nhiệm tổ chức việc công bố kết luận thanh tra. Trường hợp cần thiết có thể ủy quyền cho Trưởng đoàn thanh tra công bố kết luận thanh tra. Việc công bố kết luận thanh tra được lập thành biên bản. Việc công khai kết luận thanh tra chuyên ngành được thực hiện theo quy định.

3.3. Hoạt động thanh tra chuyên ngành độc lập

Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở, Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ phân công Thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý tiến hành thanh tra chuyên ngành độc lập. Quyết định phân công bao gồm các nội dung sau: (1) Họ, tên, chức danh, số hiệu thẻ của Thanh tra viên hoặc của công chức thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập; (2) Phạm vi, nội dung, nhiệm vụ thanh tra; (3) Thời gian tiến hành thanh tra.

Thời hạn thanh tra chuyên ngành độc lập đối với mỗi đối tượng thanh tra là 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiến hành thanh tra. Trường hợp cần thiết người ra Quyết định phân công gia hạn thời gian thanh tra nhưng thời gian gia hạn không được vượt quá 05 ngày làm việc.

Khi tiến hành thanh tra người được phân công phải xuất trình văn bản phân công nhiệm vụ, thẻ thanh tra viên hoặc thẻ công chức thanh tra chuyên ngành và thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn theo quy định.

            Khi kết thúc thanh tra, thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành phải báo cáo bằng văn bản về kết quả thực hiện nhiệm vụ. Báo cáo phải nêu rõ nội dung, kết quả thanh tra, các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền, biện pháp đã kiến nghị xử lý (nếu có) và phải lưu hồ sơ thanh tra.

          3.4. Thanh tra lại trong hoạt động thanh tra chuyên ngành

           Chánh Thanh tra bộ quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ kết luận, khi được Bộ trưởng giao. Chánh Thanh tra sở quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chi cục trưởng thuộc Sở kết luận, khi được Giám đốc sở giao,

Việc thanh tra lại được thực hiện khi có một trong các căn cứ được quy định gồm (1) Có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục trong tiến hành thanh tra; (2) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật khi kết luận thanh tra; (3) Nội dung kết luận thanh tra không phù hợp với những chứng cứ thu thập được trong quá trình tiến hành thanh tra; (4) Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra, Thanh tra viên, công chức được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ việc hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; (5) Có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng của đối tượng thanh tra chưa được phát hiện đầy đủ qua thanh tra.

Chậm nhất là 03 ngày làm việc kể từ ngày ký quyết định thanh tra lại, Chánh Thanh tra bộ, Chánh Thanh tra sở phải gửi quyết định cho người đã ký Kết luận thanh tra, đối tượng thanh tra. Quyết định thanh tra lại phải được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ký. Việc công bố quyết định thanh tra lại phải được lập thành biên bản.

Thời hiệu thanh tra lại là 01 năm kể từ ngày ký kết luận thanh tra.

Chú ý sự khác nhau với Nghị định 86/20011/NĐ-CP

Chậm nhất là 05 ngày, kể từ ngày ký quyết định, người có thẩm quyền thanh tra lại phải gửi quyết định thanh tra lại cho người đã ký kết luận thanh tra, đối tượng thanh tra lại.

Thời hiệu thanh tra lại là 02 năm, kể từ ngày ký kết luận thanh tra.

Báo cáo kết quả thanh tra lại phải xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của người đã tiến hành thanh tra, kết luận thanh tra.

Kết luận thanh tra lại phải xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của người đã tiến hành thanh tra, kết luận thanh tra và kiến nghị biện pháp xử lý

3.5. Trách nhiệm và mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động thanh tra chuyên ngành

- Trách nhiệm xây dựng, phê duyệt kế hoạch thanh tra chuyên ngành

Chậm nhất vào ngày 01 tháng 11 hằng năm, Tổng cục, Cục thuộc Bộ có trách nhiệm gửi kế hoạch thanh tra đến Thanh tra bộ. Thanh tra bộ có trách nhiệm trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 15 tháng 11 hằng năm. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm xem xét, phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 25 tháng 11 hằng năm.

Thanh tra sở có trách nhiệm trình Giám đốc sở phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 05 tháng 12 hằng năm. Giám đốc sở có trách nhiệm xem xét, phê duyệt kế hoạch thanh tra chậm nhất vào ngày 15 tháng 12 hằng năm.

Kế hoạch thanh tra được gửi cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức có liên quan.

- Trách nhiệm hướng dẫn mghiệp vụ thanh tra chuyên ngành. Thanh tra bộ có trách nhiệm hướng dẫn Tổng cục, Cục thuộc Bộ, Thanh tra sở về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành.

- Trách nhiệm xử lý chồng chéo về hoạt động thanh tra chuyên ngành.

Chánh thanh tra bộ có trách nhiệm xử lý chồng chéo; trường hợp không thống nhất thì báo cáo Bộ trưởng xem xét, quyết định.

Chánh thanh tra sở có trách nhiệm xử lý chồng chéo; trường hợp không thống nhất thì báo cáo Giám đốc sở xem xét, quyết định.

Chế độ báo cáo về công tác thanh tra

Tổng cục, Cục thuộc Bộ báo cáo Thanh tra bộ theo định kỳ 03 tháng, 06 tháng, 01 năm,

Thanh tra bộ, Thanh tra sở báo cáo Bộ trưởng, Giám đốc sở theo định kỳ 06 tháng, 01 năm,

Báo cáo đột xuất khi cần thiết

4. Kết luận

Những quy định mới của Luật Thanh tra 2010 đã làm cho hoạt động thanh tra từ chỗ chú trọng phòng ngừa, phát hiện sai phạm, kiến nghị xử lý đã từng bước chuyển sang hoạt động mang tính đồng hành, giúp đỡ và chia sẻ cùng cơ quan, đơn vị, cá nhân là đối tượng thanh tra; khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành; tìm ra những điều bất hợp lý, những quy định khó thực hiện kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện các quy phạm pháp luật để hoạt động thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành nói riêng ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực hơn.

Những quy định về trình tự thủ tục hoạt động thanh tra chuyên ngành, tại Nghị định 07/2012/NĐ-CP cần được chú ý áp dụng sáng tạo kết hợp bảo đảm chặt chẽ về quy trình nghiệp vụ pháp lý và đủ linh hoạt để phù hợp với hoạt động thanh tra chuyên ngành KH&CN trong các lĩnh vực chuyên môn cụ thể như tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng, an toàn bức xạ, sở hữu công nghiệp, thực hiện nhiệm vụ KH&CN,...

Như vậy, so với quy định của Luật Thanh tra năm 2004, Luật Thanh tra năm 2010 đã đạt được một bước tiến rất căn bản về nhận thức của hoạt động thanh tra làm cho hoạt động thanh tra nhất là thanh tra chuyên ngành trở nên chủ động, mạnh mẽ hơn, hiệu quả cao hơn, đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi mặt của đời sống xã hội đáp ứng kịp thời công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay./.

Nguồn tin: https://thanhtra.most.gov.vn